Thứ Ba, 21 tháng 8, 2018

Say đắm điệu “Xường” dân tộc Mường

           Hát Xường – dân ca tiêu biểu của người Mường.
(HBĐT) - Ngoài những bài ca nghi lễ như mo, cầu vía, cầu yên, hát rang, bộ mẹng, hát ru… vượt lên trên các loại dân ca trữ tình và các loại dân ca khác, trở thành một loại dân ca tiêu biểu của người Mường (Thanh Hóa) phải kể đến “Xường”.

_Đây là những clip về những bài xường cổ nhất của người mường hòa bình 
                               http://bit.ly/2MJ7B6C
                  
                              http://bit.ly/2MHLwFn

Xường” – là một loại dân ca không thể thiếu được trong đời sống của người Mường. Nó thường sử dụng trong hát giao duyên trai gái, bộc lộ những tâm tình nỗi lòng trong cuộc sống tình cảm. Nguồn gốc của “Xường” được các già làng truyền lại rằng: Xưa có mụ Dạ Dần (nữ thần sáng tạo) gánh xường đi qua miền đất xứ Thanh. Không ai biết mụ sẽ trao xường ở đâu và cho ai. Bỗng nhiên gánh xường đứt quai, một sọt rơi xuống mường Ai, còn đầu kia rơi xuống mường Ống, gánh xường còn rơi vãi khắp nơi, dân mường Ống, mường Ai bèn rủ nhau ra nhặt. Vì vậy mà xường mường Ống và mường Ai được cho đó là xường gốc. Với sự kiện mang đậm tính huyền thoại này đến nay dân gian vẫn hằng nhắc nhớ: “đứt gánh mường Ai, đứt quai mường Ống”, địa danh đứt này thuộc đồi Lai Ly, Lai Láng, mường Ai nay thuộc xã Văn Nho, Kỳ Tân; mường Ống thuộc các xã Điền Trung, Điền Quang huyện Bá Thước, nơi có dãy Pù Luông quanh năm mây phủ và dòng Mã giang hùng vĩ, cuồn cuộn đổ về xuôi. Bởi vậy, người Mường Thanh Hoá từ bao đời nay rất trân trọng và tự hào với di sản văn hoá – xường của các thế hệ cha ông truyền lại: Đất thì xường, mường thì rang/ Kẻ Chợ, Mường Ngoài còn đang có tiếng, cả một vùng Mường quê Thanh nơi đâu cũng cất cao khúc hát tâm tình.
“Xường” của người Mường khi hát giao duyên chủ yếu là về đêm. Môi trường và không gian diễn ra trên ngôi nhà sàn. Nam ở gian ngoài, nữ ở buồng trong, có bếp lửa hồng và ngọn đèn dầu. Người ta còn gọi đó là áng Xường. Đến với áng Xường còn có nhiều trai gái người đứng tuổi ngồi nghe thưởng thức. Ở đó đôi trai gái lấy lời hay ý đẹp, giọng tốt để trao đổi tình cảm. Có nhiều “bạn đôi Xường” hát với nhau cả đêm còn chưa thấy mặt. Đó là các trường hợp trai, gái mường xa đến chơi, giữa chủ và khách cùng hát với nhau. Trong hát đối của các đôi nam nữ, tùy thuộc vào tài năng của chàng trai, cô gái mà lời hát là những câu hỏi ý tứ sẽ thể hiện được thái độ vui vẻ, giận hờn, trách móc hay nũng nịu, đằm thắm. Chính vì vậy, các chàng trai thường trổ hết tài năng của mình khi học hát xường.
Nhìn chung ở cái ngày xưa ấy, con trai, con gái lớn lên cùng với công việc đồng áng, nương rẫy, cày cấy, chăn tằm, con trai phải lo học thổi sáo, đàn môi, học Xường, con gái lo thêu dệt và học Xường. Không hát Xường được, không dám đi chơi xa và cũng không có bạn bè. Hát Xường trở thành một sinh hoạt, một nhu cầu và một đam mê tất yếu của người Mường, nhất là ở lớp trẻ.
Trong các loại dân ca Mường, hát “Xường” không dễ, nhất là loại Xường gốc “Xường cân” (trừ loại Xường tự do). Bởi vì loại Xường gốc, Xường cân bản thân nó đã có cấu tứ riêng biệt chặt chẽ. Nó đòi hỏi người hát phải tuân theo các bước, các cung và các bậc nhất định. Trong các bậc của Xường lại có “dắt hoa” (cái Wa), “theo tiếng chim” (pẳt siềng chim) đôi khi trong một bậc lại có “rẽ ngang, dán cách” (T,reẻ Zán) hoặc giam bậc, chài ra (xán xa) nghĩa là một bên muốn nhanh lên bậc trên, nhưng một bên lại muốn giữ lại, ghìm lại, đòi hỏi “đôi bạn Xường” phải gỡ, gỡ ra được mới là tay cao Xường. Tương tự như vậy ở cung đầu, mặc dù bên khách đã có thể bằng lòng cùng nhau hát Xường đêm nay “cho vui áng” hát “cùng nhau cho rạng đêm”. Nhưng khi vào cuộc là “đối tác” (nhất là bên nữ) không phải đã dễ hát ngay. Muốn bên nữ (khách) hát thì bên nam phải có Xường chào, hỏi, mời hát. Mời chưa hát thì nài, nài không được thì dỗ, dỗ không được thì khích:
         Em có cồng vui sao em không gióng
          Em không gióng nhiều cũng nên
                                            gióng ít
        Dẫu em tiếc, em kẹt cũng gióng vài dùi
        Thử xem âm thanh còn vui hay đã
                                       mất tiếng!?

Kết thúc cuộc Xường có thể là một đêm có thể là ba đêm. Buổi kết thúc có khi họ đã mê nhau thì họ hát Xường thề, nhưng phổ biến là Xường tiễn biệt với lời thương nhớ quyến luyến, nhắn gửi:
“Xường” của người Mường, nhất là Xường bậc có vị trí lớn trong văn hóa dân gian Mường. Nó làm cho tiếng Mường trở nên trong sáng, làm cho tâm hồn Mường trở nên phong phú và nâng cao giá trị nhân văn trong văn học dân gian Mường. Nó có giá trị đóng góp vào nền văn học dân gian của các dân tộc Việt Nam.
“Xường” Thanh Hóa có thể phân làm các loại sau:
Xường tự do và Xường cân, còn gọi là Xường bậc. Xường tự do thường là thể hiện sự cảm xúc tản mạn về nhiều mặt của cuộc đời, thân phận con người. Xường tự do là hình thức “độc” diễn phản ánh mọi sắc thái tình cảm của cư dân Mường trong cuộc sống, người hát tự do sáng tác hoặc hát theo lời ca có sẵn được trao truyền trong cộng đồng
Xường bậc là hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ, có thể thức, cung cách riêng, người hát có tài ứng đáp và giọng hát truyền cảm, có sức lan toả và lay động tâm hồn. Xường là làn điệu hát dân gian, được dùng để ca ngợi, phản ánh tâm tư tình cảm, nguyện vọng của nhân dân, để trai gái tỏ tình, làm quen với nhiều hình thức đa dạng. Xường có nhiều loại: xường chúc, xường kể, xường Đang, xường trai gái – giao duyên.
Xường bậc có quy mô lớn, dài hơi hơn, có quy củ, căn cốt hơn. Ở đó có các bước, các cung bậc. Có thể thấy ở loại Xường này có hai cung rõ rệt. Cung đầu có thể gọi đó là cung mở đầu để đi vào Xường bậc. Người Mường gọi đó là cung “lượn áng”. Cung này thường thấy có các bước: Xường chào hỏi, Xường mời, nài, Bước chân ra đi, Ngoái trông, Khen đất khen mường, Khen giàu có, Đánh thức Xường, Sự tích Xường, Trồng bông trồng hoa, Trồng Kè, Mở đường. Như vậy ở cung đầu này cũng đã ít nhất có 11 bước, từ Chào hỏi cho đến Mở đường. Mở đường (Phảt Khà) được biểu tượng như là mở đường cho đường vào đêm hát, đường tình, đường nghĩa. Khi đã phát được đường, bắc được cầu: “Nên lối em đi nên đường anh lại” thì Xường chuyển sang cung thứ hai là “lên bậc”.
Xường có cung có bậc thì đã rõ, nhưng có bao nhiêu bậc? Dân gian bảo rằng có 12? Cũng cần làm quen trong FolKlore con số ít khi là con số số học, phần lớn đều là con số ước lệ. Đừng vội tin rằng con số 3, số 9, số 12, 18 và 36 là con số chính xác. “Mười hai bà mụ”, “mười hai bến nước”, “ba mươi sáu chước”… đó chẳng qua là để nói số nhiều mà thôi. Cho nên nói Xường có 12 bậc cũng theo kiểu cách đó. Nhưng nhiều bậc trong đó thì đã rõ. Tên của các bậc đều là tiếng Mường cổ mang tính tượng hình theo một chiều cao dần phù hợp với cung bậc tình yêu hoặc gợi lên một cái gì cụ thể. Bậc 1 có tên “góp nhặt” (cu nhu cỏp nhỏp), ở đây là sự tìm tòi, gom góp, nhặt nhạnh những ý hay lời đẹp để hát Xường với nhau. Các bậc có tên tiếng Mường mang tính gợi hình: Lêu lao lên lồm, poong soong poót soót, Zờm Zờm, Zằng Zắng… Cách hát, còn có thể gọi là trình diễn ở mỗi bậc đều có gài hoa (cái Wa) theo tiếng chim (pẳt siềng chim) khác nhau. Đôi trai gái hát với nhau đều phải theo “căn cốt” của Xường có đối có đáp nhưng lại phải có vận dụng, sáng tạo “theo nó mà vượt lên nó”. Đó mới là người giỏi Xường. Cung bậc, căn cốt không làm hạn chế sự sáng tạo của người hát Xường.
Xường chúc thường được sử dụng trong những ngày vui như vào dịp năm mới, cầu chúc cho: Dưới sân lắm trâu nhiều bò/Trên nhà nhiều lúa chăm, lúa nếp… Có nhiều con trai/Có nhiều con gái/Con trai đan lưới gian ngoài/Con gái dệt vải gian trong… cuộc sống sung túc, an lành, mạnh khỏe, chúc về nhà mới, chúc mừng đám cưới, đứa trẻ chào đời… Xường kể (mo) thường hát khi có chuyện buồn trong tang ma. Xường kể về sự ra đời của vũ trụ, con người, muôn vật, lời dặn của người mất đối với gia đình, làng nước, niềm thương xót, nhớ nhung không quên đối với người đã khuất khi từ biệt cõi đời…
Trong số các loại xường thì xường trai gái là hình thức phong phú và có nhiều bài hát nhất. Xường trai gái là các bài ca trao duyên, trao tình giữa một bên là trai thanh và một bên là gái lịch, thông qua lời hát để bén duyên nhau mà nên chồng vợ. Xường trai gái là lời hát cất lên từ trái tim rạo rực thương yêu, không phân biệt địa vị cao thấp trong xã hội hay hát xường vì vật chất.
Xường giao duyên chủ yếu là hát về đêm: Đêm nay anh lắng em xường/Nghe chưa liền anh đường cố chấp/Em xường chưa liền khúc anh chớ có cười/Hát “cho vui áng” hát “cho rạng đêm”. Môi trường và không gian diễn ra trên ngôi nhà sàn, còn gọi đó là áng xường. Trong những cuộc hát xường thường có đầy đủ trà nước, trầu, thuốc lào… mọi người dùng chung và đèn đuốc cũng được thắp sáng để tiện cho việc trai gái có thể nhìn mặt chọn bạn tìm hiểu lẫn nhau… nam ở gian ngoài, nữ ở buồng trong. Đến với áng xường còn có người già và trẻ nhỏ ngồi nghe thưởng thức. Hát xường diễn ra giữa trai gái trong làng hay từ mường xa đến chơi, giữa chủ và khách cùng hát với nhau.
Với xường giao duyên, thường trong cuộc hát có hai bước chính là “lượn áng” và vào bậc. Bước thứ nhất có các chặng đó là xường chào và xường mời. Xường chào là lời chào khách của chủ, thăm hỏi, thể hiện sự kính trọng lịch sự và lễ độ giữa chủ và khách. Xường chào thường mở đầu bằng những lời hỏi thăm quê quán:“Em từ cửa nhà đi ra chơi áng/Em đi đến nơi Cun Khang bán đất/ Em đi khuất chỗ Cun Khang bán đạo/ Em ở đất mường nào lắm cun nhiều quan?… Xường mời thông thường bên chủ mời bên khách hát xường, nếu chủ mời không được thì chủ nài nỉ khách. Chủ đã hát xường nài rồi mà khách vẫn chưa chịu hát thì phải dỗ, tiếp tục nài và dỗ bằng được cho đến khi khách lên tiếng để rồi cả hai bên cùng nhau đối đáp với lời hát vừa thăm dò vừa khiêm nhường, ý nhị:
Nữ: Em xường chưa liền anh
                                 đừng cố chấp
Em xường chưa liền khúc anh
                                 chớ có cười
Nam:   Lắng xường em nói chưa liền
                             anh đâu dám chấp
Xường em chưa liền khúc
                            anh đâu dám chê…
Xường “lượn áng” là khúc dạo đầu của cuộc hát xường, chưa gửi lời thương trao lời nhớ, nhiều khi tuy chỉ mới là lời hát chào mời mà đã thâu đêm suốt sáng.
Bước hai của xường giao duyên là xường lên bậc: Xường đã có căn có cốt/Tìm đặt câu đẹp lời hay/ Để đêm nay ta lên chơi xường bậc… Xường có nhiều bậc và thường cho là 12 bậc ứng với mười hai tháng của một năm và phải hát tuần tự: Bậc một gọi là “cu nhu cọp nhọp” thể hiện sự tìm tòi, thu lượm những lời hay ý đẹp để trao duyên trao tình với nhau. Các bậc tiếp theo là: Zờm Zờm, poong soong poót soót, Zằng Zắng, lêu lao, lên lồm,… Cách hát ở mỗi bậc đều có gài hoa (cái wa) để lên bậc, trong mỗi bậc lại có phần phát triển “trẻ zán” khác nhau làn cho cuộc hát thêm sinh động và hấp dẫn. Trai gái hát đối đáp với nhau đều phải tuân thủ theo quy tắc của xường vừa phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với chủ đề, cách thức mà người hát đối với mình đưa ra.
Thông thường, cuộc xường có thể là một đêm, cũng có khi là ba đêm. Khi kết thúc có xường thề, xường dặn, và xường tạm biệt. Xường thề, xường dặn thường kết hợp với nhau, còn xường tạm biệt hát sau cùng với lời hát gửi thương, gửi nhớ, thiết tha sâu nặng: Ước chi ta đi củi chung một vác/Đi nác chung một giếng/Náu nướng chung một bóng râm/ Trời mưa lam thâm đội chung nón kín…, đến lúc chia xa thì: Em về chốn xa đất xa mường/Anh gửi em nón trắng đi đàng/ Gửi em trầu nang ăn sá… và cùng hẹn nguyền kết tóc, xe tơ: Muốn cho tiện nẻo đi về/Anh sang làm rể em về làm dâu…
Như vậy ta thấy ở các cuộc hát “Xường” nổi lên ở hai điểm, đó là cuộc sinh hoạt văn hóa: thi hát lời hay giọng tốt, đối đáp thông minh và quan trọng là đôi bạn tình tìm đến nhau bởi cảm mến vì tình.
Khác dân tộc Thái, dân tộc H'mông có tục bắt vợ, hay tục ngủ thăm của một số dân tộc phía Bắc thì tục tìm bạn đời của người Mường, Thanh Hóa trước đây lại mang một màu sắc khác. Hát “Xường” phải luôn được sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh, tình cảm của người hát.
                                      BT: Thanh MTV

Thứ Hai, 20 tháng 8, 2018

Chuyện về vị quan lang người Mường không tai


Chánh quan Lang Quách Vị ở cung đình Huế (người đứng giữa)
(HBĐT) - Xứ Mường Hòa Bình xưa, cùng với 4 mường: Bi, Vang, Thàng, Động là các dòng họ lớn: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng nối đời làm Lang cai quản. Đối với từng dòng họ thì con trai trưởng làm Lang Cả, con trai thứ làm Lang em chia nhau đi Ăn Lang (cai quản) từng vùng. Toàn tỉnh có một hội đồng Quan Lang gồm 12 thành viên. Trong đó đứng đầu là Chánh Quan Lang mà quyền thế như ông vua một vùng. 

Chánh quan Lang Quách vị được vua Bảo Đại ban cho mũ cánh chuồn thay vào đôi tai mà ông không có
Vùng đất Mường Vang, Mường Vó nằm gọn trong một thung lũng rộng lớn, với diện tích lúa nước lên đến hàng ngàn ha, thuộc 7 xã: Miền Đồi, Quý Hòa, Tuân Đạo, Tân Lập, Mỹ Thành, Văn Nghĩa và Nhân Nghĩa của huyện Lạc Sơn ngày nay. Các cụ già ở vùng này vẫn thường ngâm nga cho con, cháu nghe bài thơ cổ ca ngợi cảnh đẹp của vùng Mường Vang:

nó. Nhưng tiếp xúc với gia đình quan lang cũ ở đây, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên về uy quyền và sự thịnh vượng của Lang Cun Mường. 

Khi xưa, cai quản vùng đất trù phú, nên thơ này là dòng lang họ Quách mà dinh thự đặt tại trung tâm xã Tân Lập để thay nhau ăn lang ở vùng Chiềng Vang. Không biết là đời thứ bao nhiêu, nhưng vào một ngày lành, tháng tốt, mưa thuận, gió hòa của năm 1883, bà Chu – vợ lang Cun (Lang to) Quách Tiết sinh ra người con trai và đặt tên là Quách Vị.Quách Vị ngay từ lúc ra đời đã có khuôn mặt rất đẹp nhưng lại không có cả hai vành tai. Càng lớn, Quách Vị càng khôi ngô, thông minh và cao lớn hơn người. 

Sinh ra và lớn lên trong gia đình dòng dõi quan lang, Quách Vị được nuôi dưỡng chu đáo và được ăn học cẩn thận. Xác định bổn phận sau này thay cha làm Lang Cả cai quản thần dân nên Quách Vị càng cố gắng học tập và rèn luyện, tiếp cận vị thế tương lai của mình. Năm 1903, khi mới 20 tuổi, Quách Vị được bổ làm Thông sự Tri Châu Lạc Sơn nên càng có điều kiện, giao lưu, tiếp kiến với người Pháp và các quan lang trong vùng. Với những cố gắng của mình, 5 năm sau, mới 25 tuổi, Quách Vị được thăng làm Phó Tri châu, rồi Tri châu Lạc Sơn. 
Đêm mồng 2, rạng sáng mồng 3/8/1909, từ hang Can (thuộc xã Độc Lập ngày nay), Tổng Kiêm và Đốc Bang dấy quân khởi nghĩa đánh chiếm tỉnh lỵ Hòa Bình. Sau khi đánh vào tỉnh lỵ, tiêu diệt được một số quan, quân Pháp, thu được không ít vũ khí và lương thực, nghĩa quân theo sông Đà rút về đồn trú ở vùng núi Viêm Nam để phục binh đánh Pháp lâu dài. Trước tình hình trên, Quách Vị được lệnh mang quân Sơn dõng của Châu Lạc Sơn ra bảo vệ tỉnh lỵ và truy kích quân khởi nghĩa. Mãi tới cuối năm 1910, do lực lượng không cân sức, quân khởi nghĩa thất bại, lãnh tụ của họ bị bắt và đày ra Côn Đảo, chấm dứt cuộc khởi nghĩa yêu nước của Tổng Kiêm, Đốc Bang. 

Do chiến công này, Quách Vị được người Pháp chú ý nhưng còn phụ thuộc vào Hội đồng Quan Lang cấp tỉnh, nên ông tiếp tục về làm Quan Tri châu Lạc Sơn. Cho đến 1920, nghĩa là 10 năm sau, khi đã “cứng cáp”, Quách Vị mới được bầu vào Hội đồng Quan lang gồm 12 người. Hội đồng Quan lang lại bầu ra 6 vị từ Chánh quan lang và 5 chức sắc tiếp theo. Trong 6 người ấy, Quách Vị được bầu là quan Án sát. Đến năm 1925, Quách Vị trúng liền 2 khóa làm Chánh Quan Lang tỉnh Mường – tương đương với quan Tuần phủ người Kinh. 

Ông Quách Vị có bốn người vợ, trong đó có 2 vợ thuộc dòng dõi nhà Lang. Đinh Thị Yên – vợ cả đẻ được con trai Quách Hàm.Vợ hai là Quách Thị Yềm, người Mường Vang lại không biết sinh con; người vợ thứ Ba, thứ Tư là Bùi Thị Mếu và Bùi Thị Bì không thuộc dòng dõi nhà Lang nên phải chịu gọi là “vợ nuôi”. Cả 4 bà vợ đều ở quê nên Quách Vị ở trên tỉnh có một mình. Ngay từ khi còn làm quan Án sát, Quách Vị đã làm giấy nhận một người con gái của vợ chồng người hầu bếp làm con và đổi sang họ Quách.
Năm 1932, khi được vua Bảo Đại vời vào kinh đô Huế yết kiến, Chánh quan lang Quách Vị đã đưa người con gái nuôi xinh đẹp cùng đi. Trong lần ấy, Quách Vị được vua ban cho một bộ cẩm bào và mũ cánh chuồn thay cho đôi tai thật mà Quách Vị không có. Sau, người con gái nuôi này chính là hoa hậu sứ Mường vào các năm 1932 - 1933. Và rồi trở thành con dâu ngoài ý muốn của Quách Vị. (sẽ đề cập ở phần sau) 
sứ mới cai quản tỉnh Mường Hòa Bình. Trong buổi “Tống cựu, nghinh tân”, thấy Chánh Quan lang Quách Vị thể hiện sự lưu luyến với cựu Công sứ mà không mấy đậm đà với tân Công sứ, nên Moóclơva đã buột miệng mắng ông là “Đồ con lợn”. 

Đối với người phương Tây, đó không phải là câu nói xúc phạm. Nhưng đối với một Chánh Quan Lang người Mường thì quả là quá xúc phạm. Nhất là đối với người dân tộc Mường, vốn lại không phân biệt mắng, chửi như người Kinh. Nghĩa là nếu đụng chạm đến nhau, đối với họ đều là chửi. Chính thế, Quách Vị nổi đóa và văng tục trước mặt Công sứ Moóclơva: “Tao đút C vào làm nữa”, rồi sai thuộc hạ bốc đồ đạc trở về Mường Vang. Nhìn nhận sự việc trên không phải để thấy vị Lang không tai kia nóng tính, bảo thủ của tính cách bản địa. Con người bộc trực ấy từ chức quan, vào rừng ở cho đến cuối đời. Để rồi thế hệ con cái sau đó có điều kiện tham gia kháng chiến. 



Hệ thống Lang đạo bề thế, chặt chẽ từ ngàn xưa được sinh dưỡng, ủ ấp trong miền núi rừng Hòa Bình với những quy tắc bền chặt của “Đất có Lang, làng có phép”. Trong kho tàng dân gian truyền miệng của người Mường còn lưu: 

Lang từ khởi tổ ngày xưa 
Cuối Văn Lang quốc bây giờ đã xa 
Mỗi cành con cháu phong ra 
Họ chia Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao 
Trải nơi rừng rậm đồi cao 
Rủ đưa thầy tớ tìm vào khai hoang 
Phá rừng núi mở ruộng nương 
Chiêu dân lập ấp ruộng đường vào ra 
Sau này con cháu nhiều ra 
Đặt nên châu, tổng cùng là xã thôn 
Dòng Lang thêm nức tiếng đồn 
Cái danh quý tộc vần còn tiếng sang 
Trai thời truyền gọi quan lang 
Gái thời truyền gọi mãng nàng là tên 
Kim chi ngọc điệp nối truyền 
Mường trong phục ý, vua trên thuận tình
Sử sách có ghi nhận công lao đóng góp của tầng lớp Lang đạo trong việc giữ yên bờ cõi ở những vùng phên giậu của đất nước. Đặc biệt các nhà Lang dòng họ Đinh, Quách, Bạch, Hà của Hòa Bình tuyệt đối trung thành với Nhà Lê. Chính vì thế mà đến thời Gia Long và Minh Mạng đã không mấy cảm tình với các quan Lang người Mường, nên đã có một thời tước dần quyền cai trị tỉnh Mường của các thổ lang bản địa. Nhưng sau thấy không ổn, lại phải phục quyền cho họ. Trong tờ trình số 481 ngày 20/01/1904 của Viện Cơ mật có đoạn: “ Triều đình chưa ban bố một luật lệ nào làm ảnh hưởng đến quyền hành chính hay tư pháp của các quan lang”. Rồi Viện Cơ mật kết luận: “Những vấn đề này, Nhà Vua vẫn để cho các quan lang đưa vào lệ cổ của dân tộc ít người đó”. 

Xuất phát từ thực tế như trên, Hội đồng Quan lang lại do toàn thể các lang bầu. Và Chánh quan lang lại do Hội đồng quan lang bầu ra. Tiếng nói của họ đặc biệt có uy tín đối với dân chúng người Mường. Vắng Chánh quan lang, công việc hàng tỉnh gặp không ít khó khăn, nên nhiều lần quan Công sứ Moóclơva cho Thông phán cầm thư vào mời Quách Vị trở lại nhiệm sở nhưng ông đã cương quyết từ chối. 

Từ quan về ở ẩn trong rừng, ông Quách Vị được gia tộc và dân Mường Vang gọi là Lang Đá (Lang Ông). Không ai dám gọi tên thật của ông, vì con trai ông đã làm quan Tri châu rồi. Câu chuyện về gia tộc ông Lang không tai còn tiếp diễn ở đời sau.
                          BT: Thanh mtv

Dân tộc người Mường

Người Mường là một dân tộc sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa. Họ rất gần với người Kinh, một số nhà dân tộc học đưa ra giả thuyết người Mường về mặt sắc tộc chính là người Kinh nhưng vì cư trú ở miền núi nên họ ít bị Hán hóa. Dân số tại Việt Nam theo kết quả Điều tra dân số năm 2009 là 1.268.963 người.
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989, dân tộc Mường ở Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10 năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả Tổng điều tra dân số của Tổng cục Thống kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người.
Đây là những video về hát tiếng mường hay nhất bạn có thể xem qua

Người Mường sống tập trung ở các thung lũng hai bờ sông Đà (Phú Thọ, Sơn La, Ba Vì, Hòa Bình) và khu vực trung lưu của sông Mã, sông Bưởi (các huyện Thạch Thành, Bá Thước, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc của tỉnh Thanh Hóa). Người Mường ở Thanh Hoá gồm hai bộ phận: Mường Trong (Mường gốc) và Mường Ngoài (người Mường di cư từ Hoà Bình vào). Sang đến tỉnh Nghệ An hầu như không có người Mường sinh sống (năm 1999 chỉ có 523 người Mường trong toàn tinh). Ngoài ra ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng có gần 27.000 người mới di cư vào trong những năm gần đây.

Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Mường sống tập trung ở các tỉnh: Hòa Bình (479.197 người, chiếm 63,3% dân số của tỉnh), Thanh Hóa (328.744 người, chiếm 9,5% dân số của tỉnh), Phú Thọ (165.748 người, chiếm 13,1% dân số của tỉnh), Sơn La (71.906 người, chiếm 8,2% dân số của tỉnh), Ninh Bình (46.539 người), Hà Nội (khu vực Ba Vì), Yên Bái, Đắk Lắk. Số người Mường ở các tỉnh nói trên chiếm khoảng 98% số người Mường ở Việt Nam năm 1999.
Người Mường sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, người Mường trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo.
Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.
Văn Hóa
Người Mường thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá trải đều cho khỏi nát trước khi ăn.
Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Ðặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Ðại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình 3 con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Ðêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.
Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình hai, ba thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản Người Mường không theo quan niệm con chú con bác mà dù là con chú hay con bác ai ra đời trước đều là anh là chị, phân theo tuổi tác chứ không theo thứ hay trưởng.
Add caption


Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.
Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Ðẻ được ba đến bảy ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.
Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (bảy đến mười ngày) nhất là ba ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.
Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Sắc bùa, hội xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới...
Cưới xin
Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Ðể dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để 2 con gà sống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, 2 cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.
Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Khi trong nhà có người sinh nở, người Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi mới đặt tên.
Ma chay
Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang ông bà, cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt ma.
Khi người con trai trong gia đình ấy chống gậy tre thì gia đình ấy có bố mất, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.
Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía trước đặt một chiếc ghế mây.
Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là "đâm đuống". Tín ngưỡng:Người Mường thờ cúng Tổ Tiên Ông Bà.
Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Ðặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Ðó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.
Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn, v.v... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.
Phương tiện Vận chuyển
Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Ðôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.
Trang Phục
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.
Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải.
Trang phục nữ
Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giềng (trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ). Nhóm Mường Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong các dịp lễ, Tết, họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
Hoạt động kinh tế truyền thống
Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thuỷ lợi nhỏ.
Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).

_hôm nay tôi xin với thiệu với độc giả phần mền rút gọn link để kiếm tiền tăng thêm thu nhập thụ động

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2018

Thăm ngôi nhà trăm tuổi được hồi sinh từ đống tro tàn ở Hòa Bình

Ngôi nhà Lang trăm tuổi tại Bảo tàng Không gian văn hóa Mường, Hòa Bình đã được hồi sinh từ đống tro tàn, để một lần nữa trở thành điểm nhấn thú vị tại điểm tham quan du lịch này.

Bảo tàng Không gian văn hóa Mường thuộc địa phận tỉnh Hòa Bình. Không như suy nghĩ của nhiều người cho rằng Bảo tàng thường khô khan, ít sự tương tác, đến với Bảo tàng Không gian văn hóa Mường du khách không chỉ được tìm hiểu về văn hóa dân tộc Mường mà còn được sống trong không gian rất thiên nhiên, gần gũi và đầy sức sống.
Lối vào bảo tàng đẹp mắt với cây xanh rợp bóng và những bánh xe quay nước khổng lồ được xếp dọc đường vào..

_ Đây là những clip cận cảnh về ngôi nhà trăn tuổi
http://123link.pro/Ao680f7w
http://123link.pro/we0TFJxh


Với diện tích rộng lớn tới 5 ha, trên một vạt đồi trong thung lũng đá vôi nhỏ, Bảo tàng Không gian văn hóa Mường được chia thành hai khu vực chính là Khu Tái hiện và khu Trưng bày.

Khu trưng bày là nơi trưng bày theo chủ đề những hiện vật có giá trị như: Cồng, Chiêng, Lư, Ninh đồng hay những hiện vật về đời sống, sinh hoạt văn hóa của người Mường như dụng cụ đánh bắt cá, công cụ dệt, dụng cụ săn bắn, phòng tang ma, dụng cụ sinh hoạt trong gia đình…Trong khu vực trưng bày còn có không gian nghệ thuật được gọi là Muong Studio và thư viện với hơn 5000 đầu sách.
Sơ đồ giới thiệu từng khu vực trong khuôn viên Bảo tàng
        Một góc nhỏ trong khu vực Trưng bày
Nếu như Khu Trưng bày hấp dẫn những nhà nghiên cứu thì Khu Tái hiện thực sự thu hút khách du lịch bởi sự gần gũi, rất thật tái hiện lại cuộc sống của đồng bào dân tộc Mường xưa và nay.
Trên con đường dốc men theo sườn đồi 4 khu nhà sàn đại diện cho 4 tầng lớp lao động trong xã hội Mường lần lượt xuất hiện trước mắt du khách thăm quan.
              Hình ảnh nhà Âu tại khu Tái hiện

Nhà của tầng lớp bình dân tại khu vực Tái hiện trong Bảo tàng
Ngôi nhà đầu tiên mà khách tham quan nhìn thấy chính là Nhà Lang, Nhà Lang là ngôi nhà dành cho tầng lớp có quyền lực cao nhất, nắm quyền thống trị toàn bản Mường. Tiếp sau nhà Lang là đến nhà Âu, đây là ngôi nhà dành cho những người giúp việc có địa vị của quan Lang. Nhà dành cho tầng lớp bình dân trong xã hội Mường được gọi là Nhà Noóc. Cuối cùng là Nhà Nóc Trọi dành cho tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội Mường.
Theo thứ bậc, quyền uy và sự giàu có những ngôi nhà cũng có kích thước và quy mô tương tự. Nhà quan Lang luôn là ngôi nhà to nhất, đẹp nhất được dựng hoàn toàn bằng gỗ với sàn nhà cao. Nhà Âu nhỏ hơn một chút so với nhà quan Lang, đồ đạc trong nhà cũng sơ sài hơn. Nếu như những căn nhà Noóc của người dân thường cũng được dựng từ gỗ và một vài vặt liệu tre nứa khác thì những căn nhà dành cho tầng lớp thấp nhất của xã hội Mường – nhà Nóc Trọi chỉ được dựng một cách tạm bợ bằng tre, nứa.

Nhà quan Lang hơn trăm tuổi bị thiêu rụi trong trận hỏa hoạn năm 2013

Và được hồi sinh năm 2017
Trong một trận hỏa hoạn năm 2013, ngôi nhà của quan Lang hơn 100 tuổi đã bị thiêu hủy chỉ còn lại phần cột nhà cháy đen. Trong những năm sau đó, với nhiệt huyết của Giám đốc Bảo tàng và sự ủng hộ của nhiều người, căn nhà đã được phục dựng từ đống tro tàn. Năm 2017, Nhà Lang chính thức được hồi sinh để tiếp tục là điểm nhấn thú vị tại Bảo tàng.
Tuy mới được thành lập năm 2007, lại là một bảo tàng tư nhân song Bảo tàng Không gian văn hóa Mường đã sớm được công chúng trong và ngoài nước biết đến bởi sự chuyên nghiệp trong cách thức tổ chức cũng như sự đầu tư bài bản, có chiến lược.
Nhà lưu niệm ngay lối vào, nơi để du khách dừng chân và mua các đặc sản địa phươn
                               

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2018

VĂN HOÁ ẨM THỰC DÂN GIAN MƯỜNG

Nói đến đặc trưng ẩm thực cũng như lao động sản xuất của người Mường là nói đến một câu rất đặc trưng: "Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới", vì thế đối với cư dân Mường, với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, canh tác lúa nước, cơm nếp đồ là thứ không thể thiếu, là món ẩm thực mang ý nghĩa lớn để cảm ơn trời đất cho mùa màng bội thu.
Lễ hội cơm mới được bắt đầu từ điệu múa giã gạo, trong âm thanh rộn ràng náo nức, dường như mong mỏi cầu thực đã lan tỏa và trở thành mong mỏi cầu hạnh phúc yên vui.
Người Mường đồ cơm nếp bằng “cuốp” (loại cây thân mềm không độc, khi đồ cơm không bị nứt), như  thân cây cọ khoét rỗng, hoặc cây “bương”. Chiều cao của “cuốp” khoảng 40 - 50cm, đường kính khoảng 25 - 30cm, chứa được chừng vai ba cân gạo một mẻ. Khi đồ cơm nếp bằng “cuốp” thì cơm nếp vẫn giữ được hương thơm và giá trị dinh dưỡng của gạo.
Khi cơm chín, người  Mường đổ cơm vào thúng hay nia, mủng rồi quạt cho nguội, làm như vậy cơm vừa dẻo, vừa khô, không bị nát, ăn rất ngon. Ở một số nơi, người Mường còn đồ cơm nếp thành các màu bằng cách lấy các thứ cây thân cỏ đem giã lấy nước rồi trộn với giạo đem đồ. Khi đồ cho lần lượt các màu đỏ vào trước rồi đến màu xanh, vàng, tím trắng cho lên trên cùng. Cơm chín đổ ra trộn lẫn các màu lại với nhau. Hiện nay, Đồng bào Mường cấy lúa nếp tuy ít hơn lúa tẻ, chủ yếu ăn cơm tẻ nhưng cơm nếp đồ vẫn là món ăn ưa thích, đặc trưng của người Mường và trở thành món ăn ưa chuộng của khách du lịch.
Bên cạnh cơm nếp đồ, những món ăn cổ truyền trong ngày lễ, tết và ngày thường của người Mường cũng rất đa dạng. Có đến hàng chục món đồ cùng đủ loại món luộc, món xào, món nấu, món nướng, món nộm, món dưa. Nhiều món ăn được người Mường ưa thích và trở thành món chính trong các bữa ăn như: cơm nếp đồ, cá ốc đồ, rau trộn đồ, măng đắng đồ; thịt gà, lợn, luộc; sườn rang mắm tôm, nhộng ong rừng rang với nước măng chua; thịt trâu xào tiêu rừng; thịt trâu nấu lá lồm, ốc vặn nấu lá lốt, canh cây chuối rừng; chả lá bưởi, thịt gà luộc gói lá chuối nướng; nộm tai lưỡi, óc lợn, ớt cá lá kiệu, ớt gà vịt; măng chua, đu đủ muối tiết trâu bò, thịt lợn ướp thính, dưa cá muối kiệu…    


Sự trân trọng và phát huy những giá trị trong đời sống ẩm thực của người Mường được minh chứng cho đến thực tế ngày hôm nay. Những mâm cơm của bữa ăn ngày thường hay mâm cỗ ngày lễ tết đều được chế biến, bầy biện sao cho khéo đúng với cổ truyền. Nhiều người “sành ăn” cho rằng: các món thịt phải được bày trên lá chuối mới giữ được vị thơm đặc trưng của thịt; mâm cỗ phải có đủ giá trị dinh dưỡng, các món ăn với các chất liệu phù hợp, có lợi cho sức khoẻ; mâm cỗ ngon phải có đủ vị chua, cay, ngọt, mặn, chát và phải ngồi ăn ở không gian thoáng, mát, có bạn hiền, có khách quý cùng ăn mâm cỗ mới thật ngon, thật ý nghĩa… Tuy nhiên, người Mường thích ăn những thức ăn có vị chua, vị đắng, chát. Còn vị cay thường để ra làm món riêng chứ không xào nấu lẫn với các thực phẩm khác. Vị ngọt thì chỉ ăn ở dạng hoa quả tươi, hoặc dùng đường, mật chấm các loại bánh có bột.    
Ngoài những món ăn kể trên, trong văn hoá ẩm thực dân gian của người Mường còn có các loại rượu trắng, rượu cần, các loại bánh như: bánh trưng, bánh dầy, bánh uôi, bánh ống, bánh ốc nhọn, bánh trôi…; các loại nước từ cây rừng, nước chè uống tốt cho sức khoẻ và dễ tiêu sau bữa ăn. Riêng về rượu cần, từ nguồn gốc xuất xứ, quá trình ủ men, làm rượu và nhu cầu sử dụng trong gia đình, tiếp khách, trong các đám lễ và nghệ thuật uống cũng chứa đựng nhiều nét văn hoá độc đáo của người Mường
Văn hoá ẩm thực của người Mường còn thể hiện giá trị độc đáo sâu sắc trong đời sống của mỗi gia đình trong việc quan tâm đến nết ăn uống của con người từ lúc còn nhỏ. Đó chính là nết ăn uống kính trên nhường dưới; đó là lòng hiếu khách và hạnh phúc khi được nhiều người quý mến và ở lại nhà ăn cơm; đó là lòng thương người thiếu đói, sẵn sàng cho gói cơm, đấu gạo khi người khó đến xin; đó là tính cởi mở giao tiếp trong ăn uống…
 
Văn hoá ẩm thực của người Mường được lưu giữ góp phần quan trọng trong việc tôn vinh văn hoá dân tộc. Nhiều bản làng của người Mường trở thành những điểm du lịch hấp dẫn với nhiều món ăn, nhiều sản phẩm đặc trưng được quảng bá như khu vực suối khoáng Kim Bôi, bản Giang Mỗ (huyện Cao Phong), khu vực thị trấn Mường Khến và Mường Bi (huyện Tân Lạc), khu vực Mường Vang, và các xã vùng cao huyện Lạc Sơn (Hòa Bình)….

Đôi nét về dân tộc Mường

Dân tộc Mường mà chỉ giới thiệu trong một bài viết ngắn như thế này thì quả là khó khăn. Do vậy, chỉ xin nêu ra đôi nét c...